Châu Á Các vụ thảm sát chống Cộng sản

Trung Hoa Dân Quốc

Chính biến Thượng Hải

Quân chính phủ Quốc dân đảng bắt giữ những người bị buộc tội là đảng viên Cộng sản.

ưởng Giới Thạch sau thời gian ở Liên Xô đã trở nên căm ghét chủ nghĩa cộng sản. Ông hủy bỏ chính sách Liên minh với Nga của Tôn Trung Sơn. Ngày 12 tháng 4 năm 1927, bùng phát sự kiện Tứ Nhất Nhị tại Thượng Hải khi Tưởng Giới Thạch phát động chính biến tiêu diệt các đảng viên cộng sản, gọi là Thảm sát Thượng Hải[21][22]. Sau vụ việc, Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch đã tiến hành một cuộc thanh trừng toàn diện những người cộng sản ở tất cả các khu vực dưới sự kiểm soát của họ, và thậm chí sự tàn sát dữ dội hơn đã xảy ra ở các thành phố như Quảng ChâuTrường Sa[23] Cuộc thanh trừng đã dẫn đến một sự chia rẽ công khai giữa cánh tả và cánh hữu của Quốc dân đảng, với Tưởng Giới Thạch tự đặt mình là thủ lĩnh của phe cánh hữu tại Nam Kinh.

Trước bình minh ngày 12 tháng 4, thành viên các băng đảng do Quốc dân đảng chỉ huy đã bắt đầu tấn công các văn phòng do các nhân viên công đoàn kiểm soát, bao gồm Zhabei, Nanshi và Pudong. Theo sắc lệnh khẩn cấp, Tưởng Giới Thạch đã ra lệnh cho Quân đoàn 26 tấn công dân quân của công nhân, khiến hơn 300 người thiệt mạng và bị thương. Các công nhân công đoàn đã tổ chức một cuộc họp quần chúng để tố cáo Tưởng vào ngày 13 tháng 4 và hàng ngàn công nhân và sinh viên đã đến trụ sở của Sư đoàn 2 của Quân đoàn 26 để phản đối. Các binh sĩ đã nổ súng, giết chết 100 người và làm nhiều người khác bị thương. Tưởng đã giải tán chính phủ lâm thời Thượng Hải, tấn công các công đoàn lao động và tất cả các tổ chức khác dưới sự kiểm soát của Đảng Cộng sản. Hơn 1.000 người cộng sản đã bị bắt, khoảng 300 người đã bị xử tử và hơn 5.000 người mất tích.[24]

Chính phủ Quốc dân đảng tại Vũ Hán của Uông Tinh Vệ cũng bắt đầu thanh trừng dữ dội những người Cộng sản. Hơn 10.000 người cộng sản ở Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba, Nam Kinh, Hàng Châu và Trường Sa đã bị bắt và xử tử trong vòng 20 ngày. Liên Xô chính thức chấm dứt hợp tác với Quốc dân đảng. Chính phủ Quốc gia Vũ Hán sớm tan rã, để Tưởng Giới Thạch trở thành nhà lãnh đạo duy nhất của Quốc dân đảng. Trong một năm, hơn 300.000 người đã bị giết trên khắp Trung Quốc trong các chiến dịch tàn sát đảng viên Cộng sản do Quốc Dân Đảng thực hiện.[25]

Nội chiến Trung Quốc

Trong cuộc nội chiến, Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch đã giết chết 1.131.000 binh sĩ trước khi tham chiến trong các chiến dịch bắt buộc. Ngoài ra, phe Quốc dân đảng đã tàn sát trên 1 triệu dân thường trong cuộc nội chiến.[26]

Chính biến 228 và Khủng bố trắng ở Đài Loan

Lúc 8h sáng ngày 18 tháng 3 năm 1946, Tưởng Kinh Quốc đến Cơ Long, lần đầu tiên đặt chân lên đất Đài Loan, do Tư lệnh Sử Hoành Hi đi cùng thị sát[27]:8315. Tháng 2 năm 1947, Tưởng Giới Thạch tuần thị Từ Châu, Trịnh Châu, đều trở về Nam Kinh trong ngày; ngày 28 tháng 2, Đài Loan phát sinh sự kiện náo loạn. Mâu thuẫn được châm ngòi vào ngày 27/2/1947 khi cảnh sát bắn chết một phụ nữ trong chiến dịch truy quét thuốc lá lậu. Tưởng Giới Thạch tuyên bố phương châm xử lý là không khoan nhượng[28]:50 và gửi lực lượng đến hỗ trợ toàn quyền Đài Loan Trần Nghi trấn áp các cuộc nổi dậy.

Trong cuộc trấn áp, quân đội Tưởng Giới Thạch đã thảm sát hàng chục ngàn người. Sau khi hoàn thành việc tái chiếm Đài Loan, Toàn quyền Trần Nghi tiến hành một chiến dịch thanh trừng đẫm máu với việc bắt giữ, tra tấn và cả thủ tiêu bất cứ ai nghi vấn tham gia làm loạn hay có hành động chống lại Quốc dân đảng. Các trường học có sinh viên, học sinh tham gia làm loạn đều bị đóng cửa vô thời hạn. Sinh viên, học sinh tham gia làm loạn đều bị bắt giữ, tra tấn, xử tù và thủ tiêu. Doanh nhân, công nhân tham gia làm loạn cũng chịu chung số phận. Tài sản của họ đều bị tịch thu, cha mẹ, con cái đều bị quản thúc.

Đến ngày nay, vẫn chưa có thống kê chính xác về số người thiệt mạng trong các cuộc trấn áp và truy quét, ước chừng từ 18.000 - 28.000 người, có số liệu khác cho rằng số người thiệt mạng là hơn 30.000 người. Tưởng Giới Thạch có ra lệnh tàn sát dân chúng hay không vẫn luôn là câu hỏi của nhiều người. Sự kiện này được lịch sử ghi lại bằng cái tên “Sự kiện 28 tháng 2[29]

Đông Timor

Bằng cách phát đi những lời buộc tội các nhà lãnh đạo Mặt trận cách mạng vì một Đông Timor độc lập là Cộng sản và gieo rắc bất hòa trong Liên minh Dân chủ Timor, chính phủ Indonesia đã thúc đẩy sự bất ổn ở Đông Timor và theo các nhà quan sát, đó là cái cớ để Indonesia xâm chiếm vùng này.[30] Trong quá trình Indonesian xâm chiếm Đông Timor và áp đặt sự chiếm đóng, quân đội Indonesian đã giết hại hoặc làm chết đói 150.000 người[31][32][33] Đông Timor, tương đương 1/5 dân số của vùng này. Đại học Oxford đã tổ chức một sự đồng thuận học thuật gọi đây là cuộc diệt chủng Đông TimorĐại học Yale đã giảng dạy nó như là một phần của chương trình Nghiên cứu diệt chủng của trường này.[34][35]

Indonesia

Các vụ giết người tại Indonesia 1965-1966 là một cuộc thanh trừng chống cộng sản sau một cuộc đảo chính không thành công ở Indonesia. Ước tính được chấp nhận rộng rãi nhất là hơn nửa triệu người đã thiệt mạng. Các cuộc thanh trừng là một sự kiện quan trọng trong quá trình chuyển đổi các "thứ tự mới"; Đảng Cộng sản Indonesia (PKI) đã bị loại bỏ như là một lực lượng chính trị và các biến động dẫn đến các sự sụp đổ của Tổng thống Sukarno, và bắt đầu thời kỳ cầm quyền 30 năm của tổng thống Suharto.

Các vụ giết người được bỏ qua trong hầu hết các sách lịch sử của Indonesia, và đã nhận được nội tâm bởi dân Indonesia và tương đối ít sự chú ý của quốc tế. Giải thích thỏa đáng cho các quy mô và điên cuồng của bạo lực đã thách thức các học giả từ tất cả các quan điểm ý thức hệ. Khả năng quay trở lại với biến động tương tự được trích dẫn là một yếu tố bảo thủ chính trị "Trật tự mới" chính quyền và kiểm soát chặt chẽ của hệ thống chính trị. Cảnh giác chống lại một mối đe dọa cộng sản nhận thức vẫn còn là một dấu hiệu của tổng thống Suharto ba mươi năm. Ở phương Tây, những vụ giết người và những cuộc thanh trừng này ở Indonesia lại được miêu tả như là một "chiến thắng to lớn" đối với phong trào cộng sản ở đỉnh cao của Chiến tranh Lạnh.

Các vụ thảm sát bắt đầu vào tháng 10 năm 1965 trong những tuần lễ sau các âm mưu đảo chính, và đạt đến đỉnh cao trong phần còn lại của năm trước khi chuyển qua những tháng đầu năm 1966. Các cuộc thanh trừng bắt đầu ở thủ đô Jakarta, lan đến Trung và Đông Java, và sau đó Bali. Hàng nghìn dân quân địa phương và các đơn vị quân đội giết chết những người bị cáo buộc là cộng sản. Mặc dù các vụ giết người xảy ra trên khắp Indonesia, cuộc thanh trừng tồi tệ nhất lại diễn ra trong các căn cứ địa của PKI ở Trung Java, Đông Java, Bali, và phía bắc Sumatra. Có thể có hơn một triệu người đã bị giam cầm. Khoảng 500 nghìn tới 1 triệu người bị cho là có liên hệ với Đảng Cộng sản Indonesia đã bị giết hại[36]

Tại Hàn Quốc

Thảm sát tại cuộc nổi dậy Jeju

Bài chi tiết: Khởi nghĩa Jeju

Khởi nghĩa Jeju (Hangul: 제주 4·3 사건, chữ Hán: 濟州四三事件, nghĩa là 'sự kiện 3 tháng 4 tại Jeju') là một cuộc khởi nghĩa trên đảo Jeju tại Nam Triều Tiên/Hàn Quốc kéo dài từ ngày 3 tháng 4 năm 1948 đến tháng 5 năm 1949.[37][38]:139, 193 Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến khởi nghĩa là cuộc bầu cử dự kiến vào ngày 10 tháng 5 năm 1948 theo kế hoạch của Ủy ban Lâm thời Liên Hiệp Quốc tại Triều Tiên (UNTCOK) nhằm hình thành một chính phủ mới cho toàn thể Triều Tiên. Tuy nhiên, bầu cử chỉ được lên kế hoạch tổ chức tại miền nam của Triều Tiên, trong khi không được tổ chức ở miền Bắc vì Liên Xô và chính quyền miền Bắc tẩy chay cuộc bầu cử. Trước cuộc bầu cử riêng rẽ ở phía Nam, các chiến binh du kích của Đảng Lao động Nam Triều Tiên (SKLP - một đảng anh em với Đảng Lao động Triều Tiên ở miền Bắc) đã phản ứng kịch liệt, tiến hành cuộc nổi dậy trên đảo Jeju.[37][38]:166–167

Chính phủ muốn quân nổi dậy đầu hàng hoàn toàn, còn quân nổi dậy yêu cầu cảnh sát địa phương giải trừ quân bị, miễn nhiệm toàn bộ quan chức trên đảo, cấm các tổ chức thanh niên bán quân sự trên đảo và tái thống nhất đất nước Triều Tiên.[37][38]:174 Giao tranh tiếp tục sau khi đàm phán thất bại, Chính phủ Hàn Quốc đáp trả hoạt động du kích bằng cách triển khai các đại đội cảnh sát, mỗi đại đội có 1.700 người, từ các tỉnh miền nam đến Jeju.[38]:168 Ngày 17 tháng 11 năm 1948, Lý Thừa Vãn tuyên bố thiết quân luật nhằm tiêu diệt cuộc khởi nghĩa. Trong giai đoạn này, Quân đội Nam Triều Tiên tham gia các hành động tàn bạo, một báo cáo mô tả sự kiện vào ngày 14 tháng 12 năm 1948 khi Quân đội Hàn Quốc tấn công làng, bắt giữ nhiều nam nữ thanh thiếu niên, hiếp dâm tập thể các nữ thanh thiếu niên trong hai tuần lễ và hành quyết họ cùng các nam thanh niên.[39]

Hài cốt những người bị quân Hàn Quốc tàn sát tại động Daranshi tại Jeju

Ngày 1 tháng 1 năm 1949, du kích khởi nghĩa phát động cuộc tấn công cuối cùng chống quân đội Hàn Quốc nhưng thất bại.[38]:184–185 Quân đội Nam Triều Tiên truy kích các du kích quân và tiếp tục thực hiện các hành động tàn bạo, như tàn sát dân làng.[38]:186:58[40]:36 Chính phủ Hàn Quốc lúc này kiên quyết tiêu diệt tàn quân du kích, họ phát động một chiến dịch tiệt trừ trong tháng 3 năm 1949. Trong chiến dịch, 2.345 du kích quân và 1.668 thường dân bị giết.[38]:189

Hành động đàn áp tàn bạo của cảnh sát và quân đội Hàn Quốc dưới quyền kiểm soát của chính phủ Hoa Kỳ do James A. Casteel lãnh đạo, người chỉ huy lực lượng an ninh Jeju[41] Truyền thông Hoa Kỳ đưa ra tài liệu và công khai vụ tàn sát song quân đội Hoa Kỳ làm ngơ[42] Quân đội Hoa Kỳ sau đó gọi việc phá hủy hoàn toàn làng Jungsangan - tai họa lớn nhất trong sự kiện - là một "chiến dịch thành công".[43]

Nhìn chung, quân đội Hàn Quốc đã đàn áp vụ khởi nghĩa một cách đặc biệt tàn nhẫn.[37][38]:171[40]:13–14 Kết quả là khoảng 30.000 người thiệt mạng do khởi nghĩa, chiếm khoảng 10% dân số của đảo.[38]:195[40]:12 Khoảng 40.000 người khác phải sang Nhật Bản lánh nạn.[37][39]

Thảm sát tù nhân và thường dân trong chiến tranh Triều Tiên

Trong chiến tranh Tiều Tiên, các lực lượng bán quân sự và cảnh sát, quân đội Hàn Quốc, thường có sự chứng kiến của giới quân sự Hoa Kỳ và những người không bị xét xử, đã hành quyết hàng chục ngàn tù nhân cánh tả và những người có cảm tình với Bắc Triều Tiên trong những sự kiện như vụ tàn sát tù nhân chính trị của Nhà tù Daejeon và cuộc đàn áp đẫm máu trong vụ Thảm sát Jeju.

Ngay trong ngày nổ ra chiến tranh, 28/6/1950, tổng thống Lý Thừa Vãn của Hàn Quốc ra lệnh tử hình toàn bộ tù nhân chính trị, bao gồm cả những người bất đồng chính kiến với Lý Thừa Vãn. Họ bị gom hết vào tội danh "ủng hộ Cộng sản" (dù thực tế phần lớn số này không phải là đảng viên Cộng sản mà chỉ tỏ ra chống đối chế độ Lý Thừa Vãn). Đầu tiên là tại trại tù ở đảo Jeju cực nam Hàn Quốc, nơi các tù chính trị phạm được chia làm bốn loại là A, B, C, D, tù chính trị phạm thuộc nhóm C, D bị xử bắn lập tức theo lệnh "Hành hình toàn bộ các tù nhân thuộc nhóm C,D bằng cách xử bắn không muộn hơn ngày 6 tháng 9 (năm 1950)" của Lý Thừa Vãn. Trên quy mô toàn quốc, tất cả tù chính trị, nghi can có liên hệ với Đảng Lao động Triều Tiên trên toàn quốc, đặc biệt tại trại cải tạo Bodo League (보도연맹 사건), bị tử hình lập tức bằng mọi cách mà không có bất kì phiên tòa, phiên xét xử nào.Tù nhân bị xử bắn tập thể, hầu hết bị tống xuống hố chôn tập thể, một số bị dùng báng súng đập chết hoặc bị quăng xuống biển. Nhiều đối thủ chính trị, gia đình các tù Cộng sản, chính trị phạm bao gồm cả trẻ em cũng bị đưa vào danh sách tử hình, bản án được các binh sĩ Hàn Quốc thực thi triệt để. Gregory Henderson, một nhà ngoại giao Hoa Kỳ tại Triều Tiên vào thời điểm đó, đưa ra con số tổng cộng là 100.000 người đã bị Hàn Quốc hành quyết, và xác chết của những người này bị quăng vào các hố chôn tập thể.[44]

Lính Hàn Quốc xử bắn hàng loạt dân thường ở Daejon, tháng 7/1950. Ảnh được chụp bởi U.S. Army Major Abbott.

Quân đội Hàn Quốc bị cáo buộc đã thảm sát hàng trăm nghìn lính Bắc Triều Tiên và Trung Hoa, trong đó rõ ràng nhất là cuộc thảm sát 1.800 tù nhân chính trị do quân đội miền Nam Triều Tiên thực hiện tại Daejeon, trong ba ngày của tháng 7/1950. Các nhà sử học và nhân chứng sống sót khẳng định binh lính Hàn Quốc đã hành quyết nhiều thường dân khi các lực lượng của Liên Hợp Quốc rút lui trước cuộc tấn công của quân đội Bắc Triều Tiên vào giữa năm 1950. Những nạn nhân này bị tình nghi có cảm tình với Bắc Triều Tiên và có thể cộng tác với đối phương nên bị xử bắn.[45]

Sau khi tái chiếm lại Nam Triều Tiên vào năm 1950, Lý Thừa Vãn ra lệnh tiến hành thảm sát hàng loạt những người dân bị tình nghi ủng hộ Bắc Triều Tiên, gây ra Thảm sát Bodo League (giết chết 100.000[46][cần số trang] tới 200.000[47] người), diễn ra suốt mùa hè năm 1950. Đây là một trong những vụ thảm sát lớn nhất châu Á kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Gần đây, Ủy ban Hòa giải và Tìm sự thật của Hàn Quốc đã nhận được các báo cáo của hơn 7.800 vụ tàn sát dân sự trong 150 địa điểm khắp đất nước nơi các vụ tàn sát dân sự tập thể xảy ra trước và trong suốt cuộc chiến. Theo nhà lịch sử Kim Dong-choon, những vụ tàn sát tập thể này là "chương tàn bạo và kinh hoàng nhất cuộc chiến Triều Tiên". Ủy ban Hòa giải và Tìm hiểu sự thật ước tính ít nhất 100.000 người đã bị hành quyết. Những ước tính này dựa trên các cuộc khảo sát của các địa phương và theo ông Kim, con số thực sự có thể cao gấp hai lần và hơn thế.[48] Trong những vụ khác, quân đội Hàn Quốc cũng đã cho phá hủy một số cây cầu có đông nghẹt các thường dân đang bỏ chạy khi họ không thể nào giải tỏa những cây cầu đó trước khi quân địch đến.

Thảm sát Quang Châu

Nghĩa trang Mangwol-dong ở Gwangju, thi thể các nạn nhân của vụ thảm sát Gwangju được chôn cất ở đây.

Năm 1980, Chung Doo-hwan được một hội đồng bầu cử bầu lên làm tổng thống. Ngày 18/5/1980 đã xảy ra vụ nổi dậy Gwangju khi người dân địa phương đánh cướp kho vũ khí của các trạm cảnh sát địa phương để chống lại cảnh sát chính phủ của Chung Doo-hwan sau khi lực lượng này đàn áp một cuộc biểu tình ôn hòa của sinh viên địa phương. Quân đội Hàn Quốc đã được điều động đến và được cho là đã nổ súng bắn chết khoảng 1.000 tới 2.000 thường dân[49][50], mặc cho tội ác thảm sát của mình, Chung Doo-hwan vẫn nắm vị trí cao nhất trong bộ máy quyền lực ở Hàn Quốc cho tới tận năm 1988. Sau này, ông ta bị chính phủ mới kết tội tham nhũng, hối lộ và bị kết án tử hình (sau đó được giảm xuống còn chung thân).

Trong suốt thời kỳ Chun Doo-hwan cầm quyền, sự kiện "18 tháng 5" bị vu cáo là "cuộc phản loạn của những người ủng hộ và đi theo chủ nghĩa Cộng sản". Chỉ sau khi luật dân sự được tái lập, sự kiện này mới được coi là một nỗ lực phục hồi nền dân chủ trước quyền lực quân sự. Chính phủ Hàn Quốc đã chính thức gửi lời xin lỗi và xây dựng một nghĩa trang quốc gia dành cho các nạn nhân.[51][52]

Đài Loan

"Khủng bố Trắng" ở Đài Loan diễn ra từ 1947 đến 1987.[53] Khoảng 140.000 người Đài Loan đã bị cầm tù trong thời gian này, trong đó có khoảng 3.000 đến 4.000 người bị xử tử vì sự chống đối với chính phủ Trung Quốc Quốc dân Đảng do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo.[54] Tuy nhiên, hầu hết các vụ truy tố thực tế diễn ra vào năm 1950-1953. Phần lớn những người bị truy tố đã bị ]] cho là "Bọn côn đồ gián điệp" (匪諜), có nghĩa là gián điệp cho Đảng Cộng sản Trung Quốc, và bị trừng phạt.

Quốc dân Đảng đã bỏ tù hầu hết giới tinh hoa và trí thức xã hội của Đài Loan vì sợ rằng họ có thể chống lại sự cai trị của Quốc dân Đảng hoặc có thiện cảm với chủ nghĩa cộng sản.[54] Vào năm 1969, tổng thống tương lai Lý Đăng Huy đã bị cơ quan mật vụ Đài Loan bắt giữ và thẩm vấn trong hơn một tuần, tra khảo về "các hoạt động cộng sản" của ông và đã nói với ông rằng "giết ông vào lúc này cũng dễ như nghiền nát một con kiến đến chết"[55]

Thái Lan

The Thai military government and its Communist Suppression Operations Command (CSOC), helped by the Royal Thai Army, the Royal Thai Police and paramilitary vigilantes, reacted with drastic measures to the insurgency of the Communist Party of Thailand during the 1960s and 1970s. The anti-communist operations peaked between 1971 and 1973 during the rule of Field Marshal Thanom Kittikachorn and General Praphas Charusathien. According to official figures, 3,008 suspected communists were killed throughout the country.[56] Alternative estimates are much higher. These civilians were usually killed without any judicial proceedings.

A prominent example was the so-called "Red Drum" or "Red Barrel" killings of Lam Sai, Phatthalung Province, Southern Thailand, where more than 200 civilians[56] (informal accounts speak of up to 3,000)[57][58] who were accused of helping the communists were burned in red 200-litre oil drums, sometimes after having been killed to dispose of their bodies and sometimes burned alive.[58] The incident was never thoroughly investigated and none of the perpetrators was brought to justice.[59]

Năm 1976, đã xảy ra 1 vụ thảm sát lớn ở Thái Lan. Ngày 5/10/1976, truyền thông Thái Lan tường thuật về một vở kịch do các sinh viên Đại học Thammasat dàn dựng trong 1 cuộc biểu tình, được cho là có cảnh giả treo cổ Thái tử Vajiralongkorn. Phản ứng trước sự sỉ nhục theo đồn đại này, quân đội, cảnh sát cũng như dân quân Thái Lan bao vây đại học, tuyên bố rằng sinh viên là những tên Cộng sản nổi loạn. Rạng sáng ngày 6 tháng 10 năm 1976, quân đội và cảnh sát bắn vào khuôn viên, sử dụng súng trường M16, súng cạc-bin, súng ngắn, súng phóng lựu, và thậm chí là súng không giật cỡ lớn.[60]:235-236 Sau khi cảnh sát trưởng Bangkok ban lệnh tự do khai hỏa, họ nã súng ồ ạt vào khuôn viên[60]:236 Các sinh viên lặn dưới sông Chao Phraya bị các tàu hải quân bắn trong khi những người khác đầu hàng nằm xuống đất, bị đánh đập khiến nhiều người chết.[60]:236 Một số người bị treo lên cây và bị đánh, những người khác bị thiêu sống. Nhiều sinh viên nữ bị cảnh sát và nhóm dân quân "Bò tót Đỏ" cưỡng hiếp, có người mất mạng.[60]:236 Thảm sát tiếp tục trong vài giờ, và chỉ dừng lại vào buổi trưa do có mưa.[60]:236 Số lượng thương vong trong ngày này là điều tranh cãi giữa chính phủ Thái Lan và những người còn sống sau sự kiện. Theo chính phủ, có 46 người chết do xung đột, cùng 167 người bị thương và 3.000 người bị bắt giữ. Nhiều người còn sống tuyên bố rằng tổng số người chết vượt quá 100.[60]:236 Đây chính là cuộc Thảm sát Đại học Thammasat.

Việt Nam

Benjamin Valentino ước tính quân đội Mỹ và các đồng minh của Mỹ đã gây ra 110.000–310.000 vụ thảm sát hàng loạt trong các chiến dịch truy quét du kích trong chiến tranh Việt Nam.[61]

Nick Turse, trong sách "Giết mọi thứ di động, lập luận rằng: việc không ngừng tìm kiếm nhiều hơn số xác chết để báo cáo thành tích, việc sử dụng lan tràn vùng tự do bắn phá, thường dân có thể bị xem là du kích, và thái độ khinh miệt phổ biến dành cho thường dân Việt Nam đã dẫn đến thương vong lớn và tội ác chiến tranh gây ra bởi quân đội Mỹ.[62] Một ví dụ là Chiến dịch Speedy Express, được mô tả bởi John Paul Vann, là một vụ thảm sát còn ghê gớm gấp nhiều lần Thảm sát Mỹ Lai.[62]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Các vụ thảm sát chống Cộng sản http://www.brill.com/legacy-nuremberg-civilising-i... http://www.elpais.com/solotexto/articulo.html?xref... http://www.newsweek.com/id/85131 http://www.nydailynews.com/latino/group-files-show... http://www.oxfordbibliographies.com/view/document/... http://www.routledge.com/books/details/97804154624... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,7... http://www.academia.edu/8599856/Paul_M._Handley-Th... http://www.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB33/index... http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.TAB14.1C.GIF